CON NGƯỜI: PHẦN LỊCH SỬ LÃNG QUÊN (6)

Con Người:

Phần Lịch Sử Lãng Quên

 

Xem Các Bài CON NGƯỜI: PHẦN LỊCH SỬ LÃNG QUÊN

Trong trận chiến Kurukshetra mà theo cách tính của Brahma, xẩy ra 5.000 năm về trước, các hoàng thân Aryan chiến đấu bên cạnh đồng minh Atlantis của họ. Trước đó nữa Yudhisthira, lãnh tụ của một trong các nhóm hiếu chiến có dinh thự lộng lẫy hơn dinh của bất cứ hoàng thân Aryan nào, do một người Atlantis tên Maya xây và trang trí. Người này thừa hưởng một số hiểu biết siêu việt của giống dân mình.
Ta có nói là người Atlantis có hiểu biết trọn vẹn về vài lực tinh tế của thiên nhiên mà nay con người nói chung là không biết. Nhờ sự hiểu biết đó họ đạt tới mức phát triển mà người trung bình lúc này khó tưởng tượng ra , cũng như việc lạm dụng hiểu biết ấy làm cho giống dân hùng mạnh bị sụp đổ và tuyệt diệt. Các bậc Đạo sư ngày nay có trọn những hiểu biết của người Atlantis và nhiều hơn nữa, nhưng phần đạo đức phát triển cao độ của các ngài luôn luôn là cản ngăn không cho có lạm dụng. Ai quen thuộc với cách giáo huấn của các ngài, biết là các ngài hết sức cẩn thận không hề truyền hiểu biết huyền bí cho ai mà ta chưa thể tin chắc về phần đạo đức, và động cơ trong sạch của họ. Người phàm xem khoa học về các lực huyền bí của thiên nhiên là kỳ diệu, là điều mà nếu đúng, không có tầm quan trọng thực tiễn cho mấy. Điều gọi là huyền thuật - magic gồm có hai loại, loại hắc ám là tà thuật, loại thanh cao và tốt lành không gì khác hơn triết lý, áp dụng cho các điều huyền bí trong thiên nhiên khác xa với khoa học, làm minh triết của nhà hiền triết xưa hóa sâu sắc hơn, và có thể giải thích điều bí ẩn của những giống dân xưa.
Tuy vài lực huyền bí này của thiên nhiên có thể  được người có mức đạo đức thấp và ích kỷ biết  được và sử dụng, phần huyền học cao nhất sẽ luôn luôn dành cho ai trong sạch và không ích kỷ. Ta không cần bàn ở đây hệ quả sau cùng của ai theo tà thuật, thực hành điều xấu xa. Hỏa ngục của nhà thần học không ăn thua gì khi so sánh với sự trừng phạt mà luật bất biến mang lại cho ai làm ác. Thiên tai lớn lao sẽ  được mang lại làm chấm dứt sự suy đồi theo chu kỳ của các giống dân khi số phù thủy tà đạo tăng lên, khiến cho sự xung đột giữa họ và các Đạo sư chánh đạo không thể tránh  được. Cuộc tranh chấp tiếp diễn cho tới khi thiên tai theo chu kỳ quét sạch giống dân suy tàn ấy, dọn chỗ cho sự tăng trưởng và thịnh vượng của giống dân kế.
Mọi tôn giáo đều có ghi lại các tranh chấp như vậy với tên và biểu tượng khác nhau. Đó là cuộc chiến đấu của ai theo Ánh sáng chống lại kẻ theo Bóng tối. Lần gần đây nhất  của những tranh chấp thế ấy dẫn tới việc phần đất liền chót hết của châu Atlantis bị chìm xuống biển sâu. Biến cố lớn lao này, sự chiến thắng của các đạo sư cư ngụ tại Shamballah - là ốc đảo giữa Á châu - đối với các thuật sĩ ích kỷ và xấu xa của Poseidonis (mảnh đất sau cùng của lục địa Atlantis), xẩy ra khoảng 11.576 năm về trước.
Ta cần ghi lại ở đây là các đạo sư đè bẹp quyền lực của những người theo tả đạo này không phải đều thuộc về giống dân thứ năm, mà nhiều vị thuộc giống dân thứ tư, do tập luyện đã phát triểntinh thần lên tới mức của vị đạo sư giống dân thứ năm và là người chiến thắng. Nhiều thời đại về sau, thuật sĩ tà đạo không còn thắng thế tuy vẫn còn tồn tại, ta thấy thuật sĩ tà đạo Atlantis thỉnh thoảng can thiệp vào sự tiến bộ và phát triển của ai học hỏi huyền bí học chân thực.
Ngày nay phái tà đạo chưa bị tuyệt diệt; nói về con số thì thuật sĩ tà đạo đông hơn ai theo sự sáng, và ai thiên về huyền học cảm biết ảnh hưởng tệ hại của những lực hắc ám này. Trong thiên anh hùng ca Mahabharata, ta đọc thấy trận đánh kinh khiếp giữa Anusalva - vua các thuật sĩ tà đạo ở vùng đông bắc Bengal, nơi mà đến nay vẫn còn có tiếng về tà thuật - và Krishna với nhóm của ngài, gây thảm bại cho phe trước.
Vào thời điểm Phật giáo suy đồi ở Ấn, trung tâm của tà thuật Ấn Độ nằm tại Malwa vùng Rajputana. Hiện nay (1884) có hai phái tà đạo chính ở đông phương, một ở gần Kashmir, và một ở Bhutan và xa hơn nữa về phương đông. Thuật sĩ tà đạo có nhiều tên khác nhau; các nghi thức và cách thực hành của họ thật kinh khiếp, ghê rợn và nhờ vậy sai khiến  được vài lực tệ hại nhất của thiên nhiên, là các vong linh nguy hiểm và tinh linh còn xấu xa và nguy hiểm hơn.
Quyền năng đạt  được theo cách ấy  được dùng cho mục đích trừng trị kẻ thù của họ, hay để thỏa mãn mục tiêu xấu của riêng họ. Họ luôn tìm cách hại người, và chuyện thường xẩy ra là ai quyết định làm lành bị họ cản trở một cách độc ác không đạt  được như  ý. Sự khác biệt lớn lao giữa các đạo sư và thuật sĩ tà đạo là quyền lực của người sau chỉ  được sử dụng do lòng ích kỷ cao độ. Họ nhấn mạnh phàm ngã và hy sinh phần tinh thần của mình (là trực giác), là điểm linh quang trong con người; và hệ quả là khi phàm ngã tàn lụi, mà nó phải vậy khi theo với thời gian mọi điều trong thiên nhiên biến đổi thành tinh thần, họ sẽ mất tất cả, và phải bắt đầu trở lại từ nấc thang thấp nhất. Đây là sự trừng phạt đời đời  cho người xấu; sự diệt vong nói tới trong sách vở về huyền bí học. Nó không có nghĩa là sự tiêu tán tuyệt đối, mà là việc mất tất cả ký ức bao quanh một cá nhân từ thuở ban đầu; nhắc lại thì mọi cá nhân đều bất tử.
Trong ’Isis Unveiled’ đề tài châu Atlantis  được nói tới nhiều, thêm chi tiết quí giá cho sự hiểu biết của ta. Truyền thuyết xưa của đông phương kể là có một hòn đảo trên biển rộng nay là sa mạc Gobi. Đó là nơi cư ngụ của các vị đạo sư mà kinh điển Ấn giáo và Do Thái giáo có đề cập tới, gọi bằng những tên khác nhau tuy đồng nghĩa; đảo này là một phần của châu Atlantis mà nay đã biến mất. Sách ghi:
Những Vị ấy có thể sống dễ dàng trong nước, trong không, hay lửa vì các ngài làm chủ hoàn toàn những chất này ...Các đạo sư truyền các bí ẩn kỳ lạ nhất của thiên nhiên cho con người, và tỏ lộ cho họ mật ngữ mà nay đã mất … Từ đất liền không có đường liên lạc với đảo, tuy có đường hầm tủa ra theo mọi hướng mà chỉ có các ngài biết.
Nguồn tài liệu khác nói rằng châu Atlantis  được ghi trong những sách mật của đông phương mà tây phương chưa biết, bằng một tên khác theo ngôn ngữ khác. Ta sẽ thấy tên Atlantis không phải chỉ là tên một đảo, mà là của trọn một lục địa với nhiều đảo nhỏ vẫn còn tới ngày nay. Tổ tiên xa xưa của ngư phủ ở gần vịnh Uraha đã từng là đồng minh với người Trung Hoa là giống dân thứ tư, và cũng là vậy với người La Mã và cổ Hy Lạp.

Chương VII
Người Aryan tiên khởi.

Mỗi giống dân phát triển một trong bẩy nguyên lý của con người trong giới hạn của cuộc tuần hoàn này trên địa cầu. Giống dân thứ tư có nền văn minh của họ dựa trên sự phát triển nguyên lý thứ tư là ham muốn thể chất, dục vọng có mục tiêu là thỏa mãn cảm quan. Giống dân thứ năm khi tới chung cuộc có nền văn minh mà mọi khả năng trí tuệ (nguyên lý thứ năm nơi con người) sẽ đạt tới mức phát triển cao nhất trong vòng thứ năm. Giống dân thứ sáu sẽ có nét tinh thần cao độ và mọi người sẽ  được ’giác ngộ’ trước khi cuộc tuần hoàn này xong (một cuộc tuần hoàn có bẩy vòng). Chuyện giản dị là ta không thể hiểu  được sự toàn thiện của người thuộc giống dân thứ bẩy là ra sao, vì trong số các vị đạo sư có đấng thuộc mức rất cao.
Nền văn minh của giống dân Aryan là một tiến hóa khác hẳn với văn minh trước nó. Người Aryan chỉ tiếp xúc với người Atlantis sau khi họ đã phát triển nền văn minh riêng của mình tới mức đáng kể. Trong chương này ta ghi lại vài dữ kiện liên hệ với nguồn gốc và thời sơ khai của nền văn minh ấy. Tuy về sau nó chịu ảnh hưởng đáng kể của giống dân thứ tư, nhưng nó đã tự lớn mạnh bằng nội lực riêng của mình cho tới khi người Aryan tản mác đi khắp hướng.
Giống dân thứ năm đã sinh ra năm chi chủng, nhóm đầu tiên là người Ấn Aryan (là người từ xa tới đất Ấn, phân biệt với thổ dân trong vùng thuộc gốc Dravidian), và nhóm mới nhất là dân chúng Âu châu. Trong cuộc tiến hóa, nói chung thì con người phải trải qua hết mọi mẫu chủng và chi chủng trong một cuộc tuần hoàn, nhưng có nhiều ngoại lệ tuy rằng chúng tương đối hiếm. Lấy thí dụ người Ấn giai cấp Brahma không nhất thiết phải tái sinh làm người Âu châu để hoàn tất sự tiến hóa của mình, nếu họ có thể phát triển trong người tất cả những ưu điểm riêng biệt của người tây phương, mà không cần tái sinh mang kiếp là người tây phương.
Sự kiện là trong vòng giới hạn của cùng một giống dân, mỗi cá nhân do nỗ lực riêng có thể làm chủ sự tái sinh của mình mà không cần phải là bậc đạo sư; dĩ nhiên người sau làm chủ tương lai của ngài trong vòng giới hạn mà ta không cần bàn tới ở đây.
Do việc người Aryan là giống dân thứ năm của cuộc tuần hoàn này, hiển nhiên là họ chiếm một địa vị quan trọng trong chuỗi các giống dân, trong đó ba giống dân đầu dọn đường cho sự xuất hiện của loại người toàn thiện hơn. Giống dân thứ tư đánh dấu khúc quanh từ  giai đoạn hồn nhiên không hiểu biết sang hiểu biết có trách nhiệm, vì khi con người đã qua giai đoạn hiện thời về tiến bộ vật chất, họ sẽ tới một đỉnh cao toàn thiện chưa hề đạt tới trước đây.
Giống dân thứ năm nối tiếpgiống dân thứ tư - là điểm giữa theo nghĩa trước giống dân thứ tư có ba giống dân và sau nó cũng có ba giống dân - và trước khi đi tới hết giai đoạn của nó sẽ cho thấy sự tiến bộ tích cực của nhân loại, qua việc hợp nhất sự tuyệt vời tinh thần và vật chất ở mức rất đáng kể; nó là sự tiến bộ mà cái nhìn sơ khởi là nền văn minh người Ấn Aryan. Nhưng khi làn sóng tiến hóa bắt đầu giai đoạn đi lên, ta sẽ có những đỉnh toàn thiện cao hơn, thích hợp hơn để chống lại ảnh hưởng của thời gian. Chưa có giống dân nào từng hiện hữu trên địa cầu có tầm quan trọng cho ta lớn như những người thuở ban đầu sớm nhất của mẫu chủng Aryan.
Về một khía cạnh nền văn minh Ấn Độ Aryan có tính độc đáo. Người Ấn Aryan đạt tới tiêu chuẩn cao về phát triển vật chất, trong khi vẫn duy trì  được phần lớn tâm thức tinh thần của tổ tiên họ là giống dân thứ ba. Họ kết hợp nền văn minh vật chất của Atlantis với phần tinh thần cao hơn của giai đoạn trước đó. Cái nôi của giống dân Aryan tiên khởi là trung Á (nơi mà từ đó họ tản mác ra và tràn tới những phần khác nhau trên địa cầu). Lịch sử đúng thật của giống dân Aryan bắt đầu từ sự tản mác này, vì từ lúc ấy nó lớn mạnh, tiến triển nhiều hơn trong nghệ thuật và kỹ nghệ, điều mà ta tưởng lầm là chỉ mới có trong thời của chúng ta và sinh ra do nhu cầu của ta.
Nhưng việc phá bỏ thói quen sinh sống của tổ tiên tuy dẫn tới sự hưng thịnh lớn nhất cho giống dân, lại chót hết làm họ suy tàn hay đúng hơn là sự mất dạng theo chu kỳ. Điều chi đưa tới sự phân tán của người Aryan và quê hương của  họ bị tan vỡ ? Nguyên do trước mắt là nạn nhân mãn, vì khi áp lực trở thành quá lớn dân chúng bắt đầu tách ra đi tìm chỗ sống mới, và sau cùng nhóm người trước đây đoàn kết lại cuối cùng tản mác đi khắp nơi trên mặt đất.
Việc phân chia và phân tán sinh ra điều mà người Aryan trong thời trước đó chưa biết, là sự đổ máu của đồng loại, và con người khởi thủy là một khối lại trở thành xa lạ với nhau, thành người lạ, giao tranh chống lại việc chiếm đất của nhau. Diễn biến những chuyện này xẩy ra mạnh mẽ vì ký ức con người chưa phát triển lúc sơ khai.Khi rời nơi chôn nhau cắt rốn của mình, một bộ lạc không còn biết ai là anh em họ.Sự thay đổi này sinh ra nhiều ham muốn khiến có bất mãn và không vui. Việc tách lìa với nơi sinh sống ban đầu của thuở sơ khai, sinh ra nốt đau khổ đầu tiên cho các bộ lạc đi lang thang trong cuộc trường chinh dài và chán nản. Ai định cư ở vùng khí hậu lạnh nay có nhu cầu khác với ai ở lại trung Á; còn ai đi tới sống trong vùng nóng bức thì mắc bệnh, và lần đầu tiên cảm biết nỗi đau khổ khi bạn bè mất sớm; và rồi khi họ bị nghèo khó thì thời ‘Hoàng Kim’ chấm dứt.
Thoạt nghe có vẻ lạ nhưng sự phân chia và tản mác của dân chúng làm sinh ra âm nhạc và thi ca. Hai nghệ thuật này xuất hiện đầu tiên trong chi chủng nào của giống dân Aryan đi lên phương bắc. Tình hoài hương mạnh mẽ làm khuấy động tận đáy tâm hồn, và tuôn trào thành ca khúc vụng về, sơ khai. Sự lớn mạnh của âm nhạc và thi ca  được chiến tranh trợ giúp, chuyện xẩy ra khi giống dân phân tán, và nhu cầu có khẩu hiệu hô to trong chiến trận.
Sự thay đổi khung cảnh chung quanh cũng cho ra ảnh hưởng không kém đối với tôn giáo. Âm nhạc và thi ca làm sự biểu lộ ý nghĩ tinh thần có mầu sắc mới. Nhận thức cao hơn của con người bị cùn nhụt và thường  thì họ chỉ hiểu  được chuyện tinh thần nhờ vào óc tưởng tượng. Hoàn cảnh này khiến thi ca thành phương tiện thích hợp cho cảm xúc về tôn giáo; kết hợp ấy làm thi ca  được lợi còn tôn giáo bớt đi nhiều nét tinh thần. Vào thời đại ta đang nói đây, ý tưởng, giống như con người, bắt đầu bị che phủ và ẩn dụ - đối với người cổ thời là thực tại mà không phải chỉ là một cách nói - trở thành ngôn ngữ của đời sống thường ngày.
Trước khi chấm dứt phần này của đề tài, ta cần tránh ấn tượng sai lầm có thể có. Ta chớ nên cho rằng điều trên được ghi theo thứ tự thời gian, và sự thoái hóa của người Aryan lập tức xẩy ra sau khi người Aryan ban đầu tản mác. Ta cần nói trước vài điều có liên kết với biến cố này để làm bức tranh  được trọn vẹn hơn. Trên thực tế có một giai đoạn thịnh vượng và vinh quang lớn lao xen giữa việc nơi chôn nhau cắt rốn của người Aryan sơ khai bị tan vỡ, và sự suy tàn sau cùng của họ.
Ta không nói tới ở đây các nhánh nhóc của người Aryan, mà chỉ nói về bộ tộc lớn và quan trọng hơn là người tạo ra vinh quang cho Ấn Độ, và con cháu họ vẫn còn là dân cư đất này. Những người định cư ban đầu tại Ấn là tinh hoa của giống dân Aryan, họ đạt tới nền văn minh chưa có gì sánh bằng, và thế giới chỉ mới thấy thoảng qua những nét vĩ đại thực sự ban đầu của nó. Những người Aryan đó thể hiện mức phát triển cao nhất trên địa cầu  được ghi lại, và khi thế giới  được cho thấy bằng chứng về điểm này, ý nghĩa thực của triết lý mà những vị giữ gìn minh triết cổ thời có tên gọi ngày nay là Theosophy vẽ sơ mờ nhạt, sẽ  được hiểu đúng nghĩa.
Người Ấn Aryan kết tụ tới mức đáng kể hiểu biết mà tổ tiên họ đạt  được, và suy ra cho mình nhiều chân lý mà thời này không biết, trừ vài người đi trước thời đại, đưa ra thông điệp xưa, rất xưa cho một thế giới không chịu nghe và đầy nghi ngờ. Khởi sự thì những người này thiên về trực giác hơn là trí tuệ; và phải chờ tới khi quan năng sau phát triển gần vượt qua quan năng trước họ mới vật chất hóa tới độ nghi ngờ bản tính cao của mình.
Ở ngay vào các thời kỳ đầu, cuộc sống của người Aryan phần lớn là chăn nuôi; nói rằng tổ tiên ban đầu của chúng ta sống bằng sự săn bắn là sai.Họ không rắn rỏi, vì không có khuynh hướng phát triển sự rắn chắc.Họ không có điều mà ngày nay (thế kỷ 19) gọi là năng lực gây hấn.Người Aryan vào thời ta đang nói đây thì trội hơn người bây giờ. Cơ thể họ không có bệnh và không bị chết sớm, và sống lâu hơn. Mầu da người Ấn Aryan cũng không giống người Ấn lúc này là gồm nhiều sắc nâu, mà gần như thuần trắng, có vàng một chút. Nói chung thì giai đoạn mà họ phát triển và hưng thịnh so ra là thời đáng nói nhất trong lịch sử của thế giới.
Chuyện đáng ghi là lịch sử của những người tuyệt vời này ít  được biết tới ra sao. Bóng tối bao phủ câu hỏi mà nếu không có sự hiện diện của người Anh tại Ấn Độ hẳn phải mất một thời gian dài, rất dài, phương tây mới nhận thức phần minh triết họ để lại. Việc tìm hiểu được làm sống lại hiện đang bắt đầu ở Ấn (thế kỷ 19) phần lớn là do ảnh hưởng của Anh. Sự tiếp xúc với tư tưởng tự do của ngoại quốc  được mang vào đất Ấn, cho hệ quả là gợi nên trong lòng dân tộc mối quan tâm sâu xa và kỹ càng hơn về văn chương cổ xưa của nước họ. Câu đầu tiên mà người ngoại quốc muốn tìm hiểu về tình trạng của Ấn hỏi là ‘Sử sách của bạn nói gì ? Ai là tổ tiên của bạn ?’ Dân chúng bối rối nhìn quanh sững sờ, muốn tìm chứng cớ thích hợp để tỏ ra họ là con cháu không xứng đáng của tiền nhân hùng mạnh.
Nhưng thời gian chữa lành cũng như làm phục hồi. Sự quên lãng theo sau việc suy đồi của nhóm người này, tuy kéo dài lâu và vô vọng, chẳng bao lâu nữa sẽ  được chữa lại. Trong dân chúng mà từ lâu bị mê tín dị đoan và giáo sĩ chế ngự, đã nẩy sinh tinh thần tìm hiểu. Việc phục sinh đã khởi đầu, một ánh sáng mới tuy rất đỗi nhỏ bé và xa xôi trong mắt ta đã bừng lên ở phương đông, và sẽ có sự phục hưng cho giống người vĩ đại và chưa hề bị quên lãng này.
Việc phục hưng ấy to tát đến mức những vùng đất xa xôi nhất sẽ đáp ứng lại lời kêu gọi thức tỉnh. Ta không lo ngại là mối quan tâm về người Aryan phương đông và văn chương của họ sẽ phai nhạt lần, mà việc hòa hợp tư tưởng Âu châu với tư tưởng đông phương sẽ giữ cho ngọn lửa cháy mãi, và sự hiện diện của người Anh trên đất Ấn sẽ liên tục thêm vào nét rực rỡ của họ.

Chương VIII
Sự Lớn Mạnh của Ngôn Ngữ và Tôn Giáo

Trong những chương trước không có nói gì về sự tăng trưởng của ngôn ngữ. Ai đọc cẩn thận có thể đã khám phá là những hạt giống đầu tiên của ngôn ngữ  được gieo ở chi chủng thứ năm của mẫu chủng đầu tiên, lúc vị giác xuất hiện. Việc con người có  được vị giác khiến sự tiến hóa để có ngôn ngữ trở thành chuyện khả hữu; và khi kết hợp với thính giác nó dẫn tới việc sinh ra lời nói. Bao lâu mà khả năng tinh thần về việc truyền tư tưởng vẫn còn, thì người ta không thấy cần có bất cứ cách nào khác để liên lạc với nhau; nhưng chẳng bao lâu cơ thể con người hóa trọng trược hơn bắt buộc họ phải tìm phương pháp khác.
Nỗ lực đầu tiên của họ về hướng này là bắt chước tiếng chim và tiếng thú vật. Vài trường phái về ngôn ngữ hẳn sẽ bác bỏ mạnh mẽ lý thuyết này, vì cho rằng ngôn ngữ ngang hàng với lý luận, và để hỗ trợ đã nhắc tới chữ ’logos’ của Hy Lạp, chữ vừa có nghĩa lý luận vừa có nghĩa lời nói.
Nhưng ta cần nhớ là như mọi việc khác, ngôn ngữ diễn biến theo chu kỳ; không khác gì với lịch sử, ngôn ngữ học có thể nhìn lại vài phần của một trong những chu kỳ này, và do vậy có nhiều ngộ nhận về nguồn gốc của người sơ khai cũng như là các điều liên quan đến họ, trong đó có ngôn ngữ. Phương pháp của nhà nghiên cứu loại bỏ giai đoạn phát triển của con người khi lý luận không có ngôn ngữ  đi kèm, lúc chưa có ngôn ngữ. Lời nói, là đồng nghĩa với lý luận, không phải là chỉ là ngôn ngữ mà nhà ngôn ngữ học nghiên cứu.
Ngôn ngữ sớm nhất mà không ai biết ngoại trừ các đạo gia là ngôn ngữ của người Atlantis. Trong số các ngôn ngữ biết  được thì Phạn ngữ - Sanskrit là ngôn ngữ gần nhất với lời nói mà giả thuyết cho là của giống dân Aryan. Đó là thổ ngữ sinh ra từ một thổ ngữ có trước đó, và không có hiểu biết nào hay có rất ít về ngôn ngữ đầu tiên ấy. Phạn ngữ gọi nó là Devabhasa và chỉ có bậc đạo gia là có chìa khóa về ngôn ngữ mẹ này của các ngôn ngữ về sau, và nó luôn  được dùng trong văn tự của họ.
Các đạo gia ở Tây Tạng gọi ngôn ngữ bí mật này - là nguồn gốc của tiếng nói người Atlantis - là Zansar. Ngôn ngữ thánh của tín đồ Hỏa giáo gọi là Zend dựa theo tiếng mẹ Zansar. Trong nghi lễ cầu kỳ của huyền thuật cổ xưa, câu xướng luôn luôn dùng ngôn ngữ huyền bí Zansar này. Thời nay chỉ có bậc đạo gia là hiểu  được ngôn ngữ đó, dù họ ở Chaldea, Ai Cập hay Ấn Độ, bất cứ nơi nào và trong mọi thời đại của giống dân Aryan đều dùng nó cho mục tiêu bí truyền, mà không dùng ngôn ngữ nào khác. Khoa học không tin là niệm chú cho hiệu quả, nhưng sự thật bắt buộc chúng tôi ghi nhận là với người  được huấn luyện đúng cách, thì thần chú có thể là phương tiện điều khiển vài năng lực huyền bí của thiên nhiên.
Tin rằng người bình thường mà biết chú ngữ ó thể dùng nó cho bất cứ mục đích gì, tốt hay xấu là sai lầm, vì sức mạnh của chú ngữ tùy thuộc vào cách phát âm nhịp nhàng và cách xướng, hơn là vào những chữ. Chúng ta đều biết rằng cùng những chữ sẽ cho người nghe ảnh hưởng khác nhau tùy theo âm điệu phát ra. Ta không thể trình bầy ý tưởng đúng đắn về cách xướng vì nó thuộc về một cảnh giới khác mà con người không quen thuộc, nhưng có thể làm vấn đề sáng tỏ một chút với việc xem xét ảnh hưởng sinh lý của chú ngữhuyền bí OM. Chữ này khi  được xướng âm đúng cách tạo sự điều hòa cho hơi thở. Không một âm nào khác đọc dài hơn hay đòi hỏi giọng nhiều hơn việc phát âm chữ đó.
Sự tùy thuộc lẫn nhau giữa trạng thái tâm thần và hơi thở là điều không khó hiểu, và khẳng định rằng việc liên tục lập đi lập lại chữ này cho ra ảnh hưởng làm tâm trí bình lặng, và do đó kềm giữ lại sự đam mê, thì không sai. Khi xướng chú ngữ, âm thanh trầm bổng làm cho thân xác ở trong cùng tình trạng như lực tâm linh hay tinh thần gây ra. Chỉ một chữ xướng trật, hay chỉ một nhấn âm sai chỗ, sẽ phá hư trọn ảnh hưởng, hoặc không chừng sinh ra ảnh hưởng ngược với mong muốn.
Mê tín dị đoan thông thường cho là thuật sĩ làm sai bị ma quỉ bắt đem đi, có nguồn gốc từ sự kiện trên.Kinh Veda có ghi nhiều chú ngữ và lời kinh mà giáo sĩ thiếu hiểu biết có thể đọc lầu lầu, nhưng chỉ bậc đạo gia biết tính chất đúng thực của chúng và cách sử dụng chúng. Một số lời kinh khi  được xếp đặt theo cách riêng, sẽ cho biết hết những lời chú mật dùng để tạo huyền thuật trong nghi lễ Ấn giáo. Ngày nay, có những tài liệu viết bằng Phạn ngữ về thuật xướng thanh nhưng chúng tỏ ra đầy bí ẩn, và ai ích kỷ muốn có hiểu biết huyền bí và quyền năng không khai thác được chi. Chỉ ai  được truyền thụ mới có chìa khóa đúng để mở, và người thường đọc kinh điển như thế sẽ cho đó là chuyện tín ngưỡng tầm phào.
(còn tiếp)